Thứ Bảy, 28 tháng 3, 2020

Nhiễm trùng với vi khuẩn thực phẩm trở nên khó điều trị hơn

Theo báo cáo mới nhất từ EFSA và ECDC, Salmonella và Campylobacter đang ngày càng kháng thuốc kháng sinh, và các quốc gia thành viên EU đã ghi nhận sự gia tăng khả năng kháng kháng sinh tập trung cao.


Salmonella  và  Campylobacter  đang ngày càng trở nên kháng với ciprofloxacin, một trong những loại kháng sinh được lựa chọn để điều trị nhiễm trùng gây ra bởi các vi khuẩn, theo báo cáo mới nhất về kháng kháng sinh ở các bệnh lây truyền từ động vật sang người (zoonoses) công bố bởi Trung tâm Phòng chống và Kiểm soát dịch bệnh châu Âu (ECDC) và Cơ quan an toàn thực phẩm châu Âu (EFSA).
Dữ liệu mới nhất từ ​​người, động vật và thực phẩm đã chỉ ra rằng một tỷ lệ lớn vi khuẩn Salmonella có khả năng kháng đa kháng sinh (kháng ba loại thuốc chống vi trùng trở lên). Ở người, tình trạng kháng ciprofloxacin được cho là phổ biến, đặc biệt ở một số loại Salmonella và khả năng kháng ciprofloxacin cao đã tăng tổng thể từ 1,7% (2016) lên 4,6% (2018). Đối với Campylobacter, 16/19  quốc gia đã báo cáo tỷ lệ kháng ciprofloxacin rất cao hoặc cực kỳ cao.
Tỷ lệ kháng kháng sinh cao với ciprofloxacin cũng được báo cáo ở vi khuẩn Salmonella  và  E. coli từ gia cầm. Ciprofloxacin là một fluoroquinolone, một nhóm thuốc chống vi trùng được phân loại là cực kỳ quan trọng để sử dụng ở người. Nếu fluoroquinolones mất hiệu quả, tác động đến sức khỏe con người có thể là đáng kể, theo EFSA. Tuy nhiên, kháng kháng sinh kết hợp - kháng đồng thời với hai loại thuốc chống vi trùng quan trọng - đối với fluoroquinolones và cephalosporine thế hệ thứ ba ở Salmonella và với fluoroquinolones và macrolide ở Campylobacter  vẫn còn thấp.
Trong năm 2018, báo cáo đã liệt kê các trường hợp  nhiễm khuẩn Salmonella ở người  với khả năng kháng carbapenems, một loại thuốc chống vi trùng dòng cuối.
Việc phát hiện ra sự kháng carbapenem ở vi khuẩn trong thực phẩm ở EU là một vấn đề đáng lo ngại. Cách hiệu quả nhất để ngăn chặn sự lây lan của các chủng kháng carbapenem là tiếp tục sàng lọc và đáp ứng kịp thời với các phát hiện tích cực. ECDC đang hợp tác với các quốc gia thành viên EU và với EFSA theo cách tiếp cận Một Sức khỏe (One Health) để tăng cường phát hiện và giám sát sớm, trong nỗ lực chống lại mối đe dọa dai dẳng của nhiễm trùng vi khuẩn động vật kháng kháng sinh, ông Mike Catchpole, nhà khoa học trưởng của ECDC cho biết.
Báo cáo cũng bao gồm các chỉ số kết quả chính nhằm giúp các quốc gia thành viên EU đánh giá tiến bộ của họ trong việc giảm sử dụng thuốc chống vi trùng và chống lại tình trạng kháng thuốc chống vi trùng.
Ở động vật sản xuất thực phẩm, chỉ số tóm tắt về tính mẫn cảm với tất cả các loại thuốc chống vi trùng đã tăng lên ở E. coli ở chỉ dưới 25% các quốc gia thành viên (6 quốc gia) trong giai đoạn 2014-2018. Đây được cho là một sự phát triển tích cực vì nó có nghĩa là ở các quốc gia này, trong trường hợp cần thiết, phương pháp điều trị bằng thuốc chống vi trùng sẽ có cơ hội thành công cao hơn. Giảm xu hướng trong sự xuất hiện của β-lactamase phổ mở rộng (ESBL) hoặc E. coli sản xuất AmpC đã được quan sát thấy ở khoảng 40% các quốc gia thành viên (11 quốc gia) trong giai đoạn 2015-2018. Điều này cũng quan trọng vì ESBL-AmpC sản xuất E. coli chịu trách nhiệm cho các bệnh nhiễm trùng nghiêm trọng ở người.
Liên quan đến thuốc chống vi trùng dòng cuối, tình trạng kháng colistin không phổ biến ở Salmonella  và  E. coli , và E. coli sản xuất carbapenemase  không được phát hiện trong gà thịt, gà tây và thịt gà thịt.
“Những phát hiện tích cực ở động vật sản xuất thực phẩm rất đáng khích lệ vì chúng là dấu hiệu của sự cải thiện. Tuy nhiên, chúng ta cần điều tra thêm về lý do đằng sau sự thay đổi này. Kháng kháng sinh là một mối đe dọa nghiêm trọng đối với sức khỏe cộng đồng và động vật toàn cầu - hay One Health - cần phải có hành động toàn cầu”, Marta Hugas, nhà khoa học trưởng của EFSA cho biết.
Nguồn: Bộ NN
Xem thêm: cửa hàng bán chế phẩm sinh học trừ sâu / cua hang ban che pham sinh hoc tru sau / chế phẩm sinh học / che phamsinh hoc / mua chế phẩm sinh học trừ sâu / cong ty phan bon huu co tai ha noi / thuốc trừ sâu sinh học uy tín nhất / thuoc tru sau sinh hoc uy tin nhat / congty ban che pham sinh hoc / các loại thuốc trừ sâu sinh học /

Các nhà nghiên cứu khám phá các hợp chất asen mới trong ruộng lúa

Các nhà nghiên cứu của Đại học Bayreuth cùng với các nhà khoa học từ Ý và Trung Quốc lần đầu tiên đã nghiên cứu một cách có hệ thống trong điều kiện nào, và ở mức độ nào, các hợp chất asen chứa lưu huỳnh được hình thành trong đất trồng lúa. Cho đến nay, những hợp chất này chưa được tính đến trong các đánh giá về các ảnh hưởng đến sức khỏe của việc tiêu thụ gạo. Trong tạp chí Nature Geoscience, các nhà khoa học trình bày kết quả của họ và xác định nhu cầu cấp thiết cho nghiên cứu nhằm bảo vệ người tiêu dùng khỏi các rủi ro sức khỏe.


Nhóm nghiên cứu, đứng đầu là nhà hóa học môi trường Bayreuth, Giáo sư Tiến sĩ Britta Planer-Friedrich, đã phát triển một phương pháp đo asen trong đất lúa một cách đáng tin cậy. Cho đến nay, các phương pháp thường xuyên được sử dụng để giám sát asen trong ruộng lúa vẫn chưa đủ. Điều này là do các nhà nghiên cứu không thể xác định các hợp chất asen có chứa lưu huỳnh, hoặc không phân biệt được chúng với các hợp chất asen chứa oxy. Thiếu sót này sẽ gây nên các rủi ro về sức khỏe. Ít nhất một hợp chất asen chứa lưu huỳnh hữu cơ được phát hiện trên ruộng lúa được biết là gây ung thư. Điều này làm cho việc phát hiện cụ thể các hợp chất asen có chứa lưu huỳnh hữu cơ và kiểm tra độc tính của chúng trở nên quan trọng hơn. Có lẽ, cho đến nay, các hợp chất này đã bị nhầm lẫn với các hợp chất asen oxy hóa hữu cơ không độc hại do các quy trình đo lường không đầy đủ.
Planer-Friedrich giải thích: Cần nghiên cứu thêm về sự hấp thu các loại asen khác nhau trong cây lúa và những rủi ro tiềm ẩn đối với sức khỏe con người. Gạo là thực phẩm quan trọng nhất của thế giới và đảm bảo cơ sở sự sống cho hơn một nửa dân số thế giới. Planer-Friedrich kêu gọi các giới hạn được xác định hợp pháp cho tất cả các hợp chất asen độc hại trong tương lai. Hiện tại, chỉ có một giới hạn pháp lý cho các hợp chất asen oxy hóa vô cơ, trong khi các hợp chất asen oxy hóa hữu cơ vẫn được phân loại là không độc hại.
Với phương pháp đo mới của họ, các nhà nghiên cứu đã quan sát sự hình thành các hợp chất asen chứa lưu huỳnh trong thời gian dài trên các cánh đồng lúa ở Ý và Trung Quốc. Kết quả chỉ ra asen liên kết đáng kể với giá trị pH của đất và các thông số dễ đo lường khác.
Các tác giả của nghiên cứu mới cho biết cần thực hiện thêm nghiên cứu để có thể đánh giá một cách khoa học các rủi ro sức khỏe do asen gây ra. Ví dụ, các tuyến vận chuyển chính xác các hợp chất asen này được chuyển từ ruộng lúa sang hạt gạo, và ở mức độ nào, phải được làm rõ. Các nghiên cứu tại các phòng thí nghiệm Bayreuth đã xác nhận rằng các hợp chất asen có chứa lưu huỳnh có thể xâm nhập vào cây lúa và thậm chí đến được hạt gạo. Tuy nhiên, không thể loại trừ rằng tổng lượng asen trong vụ thu hoạch lúa thậm chí có thể giảm nếu các hợp chất asen có chứa lưu huỳnh thay vì các hợp chất asen có chứa oxy được hình thành trong đất. Đây sẽ là trường hợp nếu các hợp chất asen chứa lưu huỳnh phần lớn được giữ lại trong đất, hoặc nếu cây lúa ít có khả năng hấp thụ các hợp chất này.
Nguồn: Bộ NN

Xem thêm: cửa hàng bán chế phẩm sinh học trừ sâu / cua hang ban che pham sinh hoc tru sau / chế phẩm sinh học / che phamsinh hoc / mua chế phẩm sinh học trừ sâu / cong ty phan bon huu co tai ha noi / thuốc trừ sâu sinh học uy tín nhất / thuoc tru sau sinh hoc uy tin nhat / congty ban che pham sinh hoc / các loại thuốc trừ sâu sinh học /

Nghiên cứu thành công 3 giống mắc ca cho năng suất cao

Viện Nghiên cứu giống và Công nghệ sinh học, Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam đã chọn tạo thành công 3 giống mắc ca mới cho năng suất cao.

Giống mắc ca A38 trồng tại Lai Châu

1. Đặc điểm giống

Mắc ca QN1 (mắc ca Quế Nhiệt 1)
Không bị sâu bệnh hại, chịu hạn tốt, đặc biệt có bộ tán cân đối. Cây sinh trưởng khỏe, phân cành nhiều, tán thẳng hình trụ rộng 4-5m, sau trồng 10 năm đã cao trung bình 10m. Lá hình bầu dục, màu xanh nhạt, đầu và gốc lá đều nhọn, mép có răng cưa, cuống lá dài trung bình. Hoa trắng ngà, chùm hoa dài 20cm trở lên, cụm hoa dày. Tỷ lệ đậu quả cao, dạng quả hình ô van, kích thước lớn, vỏ quả xanh đậm hơi sần sùi, đầu quả có mũi nhọn, lệch so với trục cuống quả. Hạt hình cầu to trung bình, màu nâu, rốn hạt to phẳng, vỏ hạt bóng và hơi lồi lõm. Nhân hình cầu màu trắng ngà có mũi nhọn, kích thước 18-22mm.
Cho quả sau trồng 4-5 năm, năng suất gần 6 tấn/ha. Tỷ lệ nhân đạt 35-37%. Được Bộ NN-PTNT công nhận là giống tiến bộ kỹ thuật ở vùng Tây Nguyên và những nơi có điều kiện sinh thái tương tự, theo QĐ 761/QĐ-BNN-TCLN ngày 06/03/2019.
Mắc ca A16
Cây sinh trưởng khỏe, tán hình trụ rộng 4-6m cân đối, không bị sâu bệnh hại. Lá hình bầu dục hẹp, màu xanh đậm, đầu và gốc lá đều nhọn, mép lá có gợn sóng, bản lá dài 15-20cm, cuống lá dài trung bình. Hoa trắng ngà, chùm hoa dài 20-35cm, cụm hoa dày và có màu vàng nhạt. Tỷ lệ đậu quả cao, dạng quả hình ô van, kích thước lớn, vỏ quả xanh đậm, hơi sần sùi, đầu quả có mũi nhọn, lệch so với trục cuống quả.
Quả dạng tròn, vỏ quả màu xanh đậm, đầu quả có mũi ngắn, có thể phân biệt rõ với cuống quả. Hạt to trung bình, dạng hình cầu, màu nâu, rốn hạt to phẳng, vỏ hạt bóng và hơi lồi lõm. Nhân hình cầu màu trắng ngà có mũi nhọn, kích thước 20-30mm.
Cho quả sau trồng 4-5 năm, năng suất trung bình 8-12kg/cây. Tỷ lệ nhân đạt 30-35%. Được Bộ NN-PTNT công nhận là giống tiến bộ kĩ thuật ở vùng Tây Nguyên và những nơi có điều kiện sinh thái tương tự, theo Quyết định 761/QĐ-BNN-TCLN ngày 06/3/2019.
Mắc ca A38
Không bị sâu bệnh hại, chịu hạn tốt, đặc biệt có bộ tán cân đối. Tán thẳng hình trụ rộng 4-5m, sau trồng 10 năm chiều cao cây trung bình từ 10-11m. Phân cành dày, cành khỏe. Lá hình bầu dục hẹp, màu xanh đậm, bản lá rộng > 5cm, dài 15-20cm, đầu lá tròn hơi vặn xoắn, gốc lá nhọn, mép lá có gợn sóng nhỏ, ít gai, có gân nổi rõ trên mặt lá, cuống lá dài trung bình. Chùm hoa dài 20-40cm, cụm hoa dày, màu vàng nhạt.
Cho quả sau trồng 4-5 năm trồng, quả dạng tròn, kích thước trung bình, vỏ quả màu xanh đậm, hơi xù xì, đầu quả có mũi ngắn gần thẳng hàng với cuống quả, cuống quả dài trung bình, cổ phát triển mạnh, phân biệt rõ. Hạt hơi tròn màu hạt chè, khe mọc mầm rất nhỏ, rốn hạt rộng phẳng, vỏ hạt bóng hơi lồi lõm, có điểm rốn và gờ phân cách hạt rõ ràng, vỏ hạt dày 2-2,5mm. Nhân hình cầu có mũi nhọn ngắn, kích thước 15-20mm, có đường phân cách mờ màu trắng. Năng suất trung bình 10-15kg/cây. Trọng lượng hạt 7-9g. Tỷ lệ nhân đạt 30-35%.
Được Bộ NN-PTNT công nhận là giống tiến bộ kỹ thuật ở vùng Tây Nguyên, Lai Châu và những nơi có điều kiện sinh thái tương tự, theo QĐ 761/QĐ-BNN-TCLN ngày 06/3/2019.
2. Hướng sử dụng và yêu cầu kỹ thuật
Trông nơi đất có độ dốc < 15 độ, tầng canh tác dày >1m,  thoát nước tốt. Giống trồng phải là cây ghép cao hơn 60cm, mầm ghép đã phát triển dài 20-25cm. Trồng đầu mùa mưa (tháng 5-7). Mật độ trồng thuần 200-300 cây/ha, hàng cách hàng 7-9m, cây cách cây 4-5m. Đào hố kích thước 80 x 80 x 80cm, xử lý nấm bệnh bằng Furadan (20gram/hố). Bón lót/1 hố (trước trồng 20 ngày) 10kg phân chuồng hoai mục, 0,5 kg phân lân nung chảy và 0,3 kg vôi bột.
Chú ý, sau trồng cần cắm cọc cố định cây không bị đổ ngã; nên trồng mật độ dày lấy năng suất cao trong 10 năm đầu, sau đó đốn tỉa bớt cây tạo mật độ phù hợp, để vườn cây có đủ ánh sáng quang hợp duy trì năng suất.
3. Mô hình đã áp dụng thành công
HTX Nông nghiệp Nguyên Phương; HTX Mắc ca Tân Định (Đăk Lăk); Công ty TNHH MTV Trường Giang (Lai Châu), Trung tâm Khoa học Lâm nghiệp Tây Bắc (Sơn La).
Theo NNVN

Xem thêm: cửa hàng bán chế phẩm sinh học trừ sâu / cua hang ban che pham sinh hoc tru sau / chế phẩm sinh học / che phamsinh hoc / mua chế phẩm sinh học trừ sâu / cong ty phan bon huu co tai ha noi / thuốc trừ sâu sinh học uy tín nhất / thuoc tru sau sinh hoc uy tin nhat / congty ban che pham sinh hoc / các loại thuốc trừ sâu sinh học /

Thứ Sáu, 27 tháng 3, 2020

Cân đối cam chính vụ

Cân đối cam chính vụ

Hiện nay, tỉnh Hà Giang đang có 6.693 ha cam cho thu hoạch trên tổng diện tích 8.302 ha. Tỉnh Tuyên Quang có 6.070/8.690 ha cho thu hoạch. Trong đó, diện tích chủ yếu là cam sành chính vụ.



Vì vậy, về lâu dài, Cục Trồng trọt khuyến nghị 2 địa phương này cần xem xét, cân đối lại tỷ lệ cam chính vụ và chín muộn. Cụ thể, giảm tỷ lệ cam sành, tăng diện tích các giống cam chín muộn và cả chín sớm.

Các tỉnh cũng cần phải hướng dẫn người dân thu hoạch cam đúng thời vụ, hạn chế treo cam, kéo dài vụ thu hoạch. Việc này không phù hợp với đặc tính sinh lý của cây cam sành, nguy cơ rủi ro cao trong khi điều kiện thời tiết, tự nhiên ngày càng diễn biến bất thường.
Đồng thời, không mở rộng diện tích trồng cam khi chưa có những tín hiệu tích cực từ thị trường. Tập trung phát triển thâm canh, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư nhà máy chế biến nước ép cam ngay tại địa phương.


Nguồn: nongnghiep.vn


5 bước cơ bản chăm sóc cây bưởi diễn thời kì phát triển quả non

Kỹ thuật chăm sóc cây bưởi Diễn thời kỳ phát triển quả non:
Hiện nay cây bưởi Diễn đang ở giai đoạn phát triển quả non là thời điểm quan trọng để bảo đảm năng suất và chất lượng quả. Để có một vụ quả bội thu các nhà vườn cần những lưu ý khi chăm sóc cây bưởi Diễn như sau:

1. Tỉa bớt quả
Những quả bưởi sau khi đậu được khoảng 2 - 3 tuần là thời điểm rụng quả sinh lý, những cây chăm sóc kém có thể rụng quả hàng loạt. Vì vậy cần tiến hành tỉa bớt quả trên chùm sai, tỉa các quả nhỏ, quả vẹo... để tạo điều kiện cho các quả chính phát triển tốt.
- Tùy tình hình phát triển của cây và tuổi cây mà số quả để lại trên cây khác nhau.
- Việc tỉa quả cần tiến hành 2 lần :
+ Tỉa quả lần 1: Sau khi đậu quả 2 tuần
+ Tỉa quả lần 2: Tiến hành cách lần 1 khoảng 2 tuần
- Trong quá trình tỉa quả cần tỉa bỏ quả nhỏ, quả ở chùm quá dày, quả ra ở vị trí không thuận lợi, quả không cân đối, cắt bỏ những cành ra hoa nhưng không có khả năng đậu quả, cành tăm, cành khô. Khi cắt nên dùng dụng cụ chuyên dùng để cắt tỉa.

Cần khử trùng kéo cắt dụng cụ cắt bằng nước muối hoặc hơ quả lửa trước khi cắt tỉa.


2. Chăm sóc và bón phân
- Trong giai đoạn này cây rất cần chất dinh dưỡng để tập trung nuôi quả. Vì vậy sau khi tiến hành tỉa quả lần 1 khoảng 1 tuần thì tiến hành bổ sung dinh dưỡng cho cây.
- Lượng phân bón phụ thuộc vào tuổi cây, tình trạng phát triển của cây, chất đất. Nếu sau khi thu hoạch bón nhiều phân, cây sinh trưởng phát triển tốt, lá xanh tốt thì bà con bón ít và ngược lại cây còi cọc, lá không xanh thì bón nhiều.
Có thể dùng phân đơn hoặc phân NPK tổng hợp để bón cho cây.
- Lượng phân bón cho cây giai đoạn mang quả non như sau:
+ Đối với cây 5 năm tuổi:
Bón 0,1kg phân lân + 0,1kg Kali + 0,1kg đạm urê/cây; Hoặc bón 0,5 kg NPK 16:6:16 (hoặc 5:10:3)/cây.
+ Đối với cây từ 6 - 10 năm tuổi:
Bón 0,2 - 0,3kg đạm urê + 0,3 - 0,4 kg kali/cây; Hoặc bón 01 kg NPK 16:6:16 (hoặc 5:10:3)/cây.
- Cách bón: Phân bón được hòa vào nước và tưới đều xung quanh tán cây hoặc rải phân đều lên bề mặt tính từ hình chiếu tán của cây trở vào phía gốc. Sau đó lấp nhẹ lớp đất tránh tổn thương đến rễ và tiến hành tưới nước cho cây.
Tùy vào sức phát triển của cây có thể sử dụng nước phân chuồng, ốc, ngô, đỗ tương, xương động vật ngâm với lân để tưới cho cây từ 1 - 2 lần. Mỗi lần cách nhau 7 ngày.
Chú ý:
- Khi tiến hành bón phân tuyệt đối không được xới xáo, cuốc trong tán cây để tránh gây tổn thương bộ rễ.
- Không được bón quá nhiều phân đạm cây sẽ sinh trưởng và hình thành tầng rời gây rụng quả non.

3. Sử dụng phân bón qua lá
Dùng phân bón qua lá (theo chỉ dẫn trên bao bì) có thể kết hợp phun thuốc sâu hoặc thuốc phòng trừ bệnh.
Lần phun này có tác dụng cung cấp bổ sung một số nguyên tố đa vi lượng làm giảm rụng quả non, kích thích quả mau lớn.
4. Chế độ tưới nước
- Từ tháng 3 - 5 (quả nhỏ): cần tưới ẩm nhằm hạn chế rụng quả (độ ẩm đạt 70 - 80 %).
- Trong thời kỳ này nếu mưa nhiều cần phải tiêu thoát nước kịp thời, không để ngập úng.
5. Phòng trừ sâu bệnh
Trong vụ xuân mưa nhỏ, mưa phùn rải rác, ẩm độ không khí cao, ít ánh sáng nên các loại sâu bệnh hại thường phát triển mạnh và làm cho quả non bị hỏng. Các loại sâu bệnh thường gặp gồm:
- Sâu vẽ bùa: Sử dụng thuốc Polytrin 440 EC, pha 25 ml/10 lít nước hoặc Selecron 500 EC pha 25 ml/10 lít nước, phun phòng 1 - 2 lần trong mỗi đợt cây có lộc non, quả non và hiệu quả nhất lúc lộc non dài từ 1 - 2 cm, quả non có đường kính 2 - 3 cm, phun ướt hết mặt lá non, quả non.
- Rệp sáp: Rệp sáp gây hại bằng cách chích hút lá, cành, quả, cuống quả. Dùng Sherpa 25EC hoặc Trebon 10 EC pha với nồng độ 0,1 - 0,2%.
- Bệnh muội đen thân, cành, lá, quả: Thời gian xuất hiện từ tháng 2 - 10. Phun Boocdo 1% hoặc Sun-phát đồng 1% kết hợp với cắt tỉa cho thưa tán lá, cành.
- Bệnh loét, sẹo: Bệnh tấn công từ lúc quả còn nhỏ đến khi quả lớn, bệnh nặng làm rụng quả. Năm nào, mưa nhiều thời tiết nóng ẩm, bệnh phát triển mạnh thành dịch. Phòng trừ: sinh học: nano bạc đồng & nano đồng oxyclorua, hóa học có thể dùng Boocdo 1% (15 gram sunphat đồng + 20 gram vôi tôi/20 lít nước) hoặc Kocide 53.8 DF.
- Bệnh mốc sương: Để phòng bệnh mốc sương gây hại, dùng các loại thuốc đặc hiệu như: Ridomin gold 72WP; Aliette 80WG, phun lúc quả có kích thước bằng đầu ngón tay.
- Bệnh chảy gôm: Thời gian gây hại từ tháng 4, 5, 9, 10. Phun Aliette 0,3% lên thân, cành tuần 1 lần cho tới khi khỏi.
- Ngoài ra có thể dùng Basudin 10G để trị kiến, mối, bọ cánh cứng: Trộn tỷ lệ 1 thuốc + 10 cát rắc xung quanh gốc cây.
- Sâu đục thân, cành: Quét vôi vào gốc cây và thân cây, dùng xilanh bơm thuốc trực tiếp vào lỗ sâu đục bằng thuốc Sherpa 25EC
- Nhện đỏ: Khi quả có kích thước 2 - 3cm cần bắt buộc phun phòng trừ nhện đỏ gây hại. Chúng không những làm rụng quả mà còn gây nên hiện tượng nám quả ảnh hưởng đến màu sắc, hình dạng và độ lớn quả sau này. 
Chú ý:
- Sử dụng thuốc theo hướng dẫn trên bao bì.
- Thường xuyên kiểm tra vườn cây, phát hiện sâu bệnh phòng trừ kịp thời.
- Sử dụng các loại thuốc BVTV sinh học, thuốc hoá học ít độc, không dùng thuốc cấm sử dụng.
Nguồn: Trung tâm Khuyến nông Quốc gia

Điều kiện và cơ chế hình thành sương muối

Điều kiện hình thành sương muối
Sương muối là hiện tượng hơi nước đóng băng thành các hạt nhỏ và trắng như muối ngay trên mặt đất hay bề mặt cây cỏ hoặc các vật thể khác khi không khí trên đó ẩm và lạnh. Nó thường hình thành vào những đêm đông, trời lặng gió, quang mây, khi mà bức xạ là nguyên nhân chủ yếu của quá trình lạnh đi của không khí và các vật thể. Sương muối thường hình thành khi nhiệt độ không khí <= 40C (trong lều khí tượng ở độ cao 2 m), khi ấy nhiệt độ bề mặt các vật thể hay cây cỏ ở mặt đất đã có thể xấp xỉ 00C, nhưng phải đủ ẩm mới hình thành được sương muối.Thiệt hại do sương muối gây ra đối với cây trồng
Cơ chế gây hại sương muối:
- Sương muối gây hại không phải mặn như muối mà do nhiệt độ thấp. Khi sương muối xuất hiện, nhiệt độ hạ xuống thấp dưới 00C, khi đó nước trong thân cây (trong chất nguyên sinh của tế bào) sẽ bị đóng băng lại. Khi nước đóng băng sẽ giãn nở thể tích, làm phá vỡ các tế bào, các ống dẫn nhựa trên cành, thân cây cũng có thể bị ảnh hưởng. Vì vậy, ngay ngày hôm sau có sương muối, chúng ta thấy có vết cháy táp trên mặt lá cây trồng.
- Sương muối làm cháy lá, cháy hoa, khô cành, rụng trái cây trồng. Nếu bị hại nặng cây trồng có thể bị chết hoàn toàn, có thể thiệt hại 100% sản lượng cây trồng tùy vào mức độ gây hại và chủng loại cây trồng.

Xem thêm: cửa hàng bán chế phẩm sinh học trừ sâu / cua hang ban che pham sinh hoc tru sau / chế phẩm sinh học / che phamsinh hoc / mua chế phẩm sinh học trừ sâu / cong ty phan bon huu co tai ha noi / thuốc trừ sâu sinh học uy tín nhất / thuoc tru sau sinh hoc uy tin nhat / congty ban che pham sinh hoc / các loại thuốc trừ sâu sinh học /

Thứ Hai, 16 tháng 3, 2020

Thời kỳ và phương pháp sử dụng phân bón

Có hai thời kỳ sử dụng phân bón:
1.Bón lót và phương pháp bón
     Là sử dụng phân bón trước lúc gieo trồng nhằm mục đích khi rễ phát triển thì có thức ăn (các chất dinh dưỡng) để hấp thu ngay tạo điều kiện để cây phát triển khỏe mạnh ngay từ ban đầu, hay tạo điều kiện cho phân bón sẽ có thời gian phân hủy những chất khó hấp thu thành chất dễ hấp thu. Nếu từ đầu thiếu phân bón cây trồng sẽ không đủ sức, yếu ớt, sau này dù có bổ sung phân bón nhiều hơn thì cũng kém tác dụng. Phân bón lót thường là những phân bón chậm tan như phân bón hữu cơ ủ hoai mục, phân chuồng.
Phương pháp bón lót
     Là bón vào đất, rải đều ra mặt ruộng rồi cày bừa vùi xuống hay rải theo hàng, theo hốc rồi phủ một lớp đất rồi mới tiến hành gieo trồng, hoặc bón phân vào hố trước khi trồng đối với các  loại cây lâu năm.

2.Bón thúc và phương pháp bón
     Là sử dụng phân bón trong khi cây đang sinh trưởng, phát triển với mục đích cung cấp đủ và kịp thời các dưỡng chất cho cây trồng sinh trưởng phát triển tốt và cho năng suất cao. Bón thúc không đủ phân cây trồng sẽ kém phát triển, đạt năng suất thấp. Các loại phân bón thúc là các loại phân bón dễ tan, chứa các dưỡng chất dễ tiêu (dễ hấp thu), phân hữu cơ hoại mục, phân bón hữu cơ sinh học, phân bón hữu cơ vi sinh.
Bón thúc được chia ra nhiều lần bón:
     Bón thúc thời kỳ sinh trưởng sinh dưỡng là bón vào thời kỳ cây trồng phát triển thân, cành, lá, đẻ nhánh, vươn lóng.
     Bón thúc trước khi ra hoa nhằm cung cấp dinh dưỡng để cây phân hóa mầm hoa tạo điều kiện cho hoa ra khỏe, nhiều, đồng loạt, nâng cao sức sống của hạt phân, tăng tỷ lệ đậu quả.
     Bón thúc nuôi trái/củ/quả là bón sau khi đậu trái/quả, hình thành củ nhằm cung cấp dinh dưỡng kịp thời và đầy đủ để cây nuôi quả, tạo củ/hạt, tích lũy tinh bột, đường,.…giúp cây trồng có một vụ mùa năng suất cao.
Phương pháp bón thúc
Có nhiều phương pháp bón thúc như:
  • Đào rãnh kích thước rộng 20cm và sâu10cm theo chiều rộng của tán cây rải phân rồi lấp đất.
  • Rải đều trên mặt đất, theo chiều rộng/vòng quanh tán cây khi đất đủ ẩm nếu đất khô cần tưới nước sau khi bón.
  • Có thể hòa tan trong nước tưới rồi tưới vào gốc, lượng nước vừa phải đủ thấm vào đất, không để dư thừa khiến nước chảy ra ngoài gây thất thoát phân bón.
  • Có thể rải theo hốc, theo hàng như ngô, lạc,…. Các loại phân bón lá có thể dùng  phun qua lá.

Nguyên tắc sử dụng phân bón

Khi sử dụng phân bón cần tuân thủ một số nguyên tắc như sau:

1. Đúng phân:
     Dựa theo yêu  cầu dinh dưỡng của từng giai đoạn, từng loại cây trồng, đặc điểm của đất đai để lựa chọn những loại phân thích hợp, tránh thiếu hụt hay dư thừa phân bón. Ví dụ như giai đoạn nuôi trái cây cần phân bón chứa nhiều kali để tích lũy các chất hữu cơ như tinh bột, protein,… về hạt, củ, quả. Giai đoạn sinh trưởng sinh dưỡng (phát triển cành lá) cần cân đối giữa các yếu tố dinh dưỡng. Các loại đất nghèo mùn, đất chai cứng, bạc màu cần bón các loại phân bón hữu cơ, phân hữu cơ sinh học, phân hữu cơ vi sinh…. bổ sung mùn, các chất hữu cơ, các vi sinh vật có tác dụng trong việc cải tạo đất, nâng cao độ phì nhiêu cho đất.


2. Sử dụng phân bón đúng thời điểm, đúng lúc:
     Quá trình sinh trưởng, phát triển của cây bao gồm nhiều giai đoạn nối tiếp nhau, yêu cầu về phân bón và các dưỡng chất ở từng giai đoạn là khác nhau. Vào từng giai đoạn cần cung cấp đủ và kịp thời mới phát huy được hết hiệu quả, nếu thiếu hụt thì bổ sung sau cũng sẽ không đạt hiệu quả cao. Ví dụ bón thúc ra hoa nếu bón muộn thì số lượng hoa phân hóa ít, hoa nhỏ từ đó làm giảm năng suất cây trồng.
     Cây trồng có nhu cầu về dinh dưỡng trong suốt tất cả các giai đoạn, trong suốt chu kỳ sống của mình. Vì thế, để phân bón phát huy hiệu lực cao nhất, cần chia phân bón ra nhiều lần bón, bón đúng lúc mà cây cần. Nếu bón dư thừa cây không hấp thu hết, phân bón sẽ bị rửa trôi, bốc hơi gây thất thoát, lãng phí hoặc có tác động xấu lại cây trồng.
Sử dụng phân bón đúng lượng:
     Đối với cây trồng phân bón không được thiếu cũng không được thừa, chỉ cần đủ mới phát huy được hiệu quả tốt nhất. với mỗi loại phân bón sẽ có những liều lượng phân bón thay đổi khác nhau cho từng loại cây trồng.


3. Sử dụng phân bón đúng phương pháp đúng cách:
     Tùy thuộc vào loại phân mà có những kỹ thuật sử dụng khác nhau. Có loại chuyên dùng cho bón lót, có loại chuyên cho bón thúc, có loại rải trên mặt đất, có loại vùi sâu xuống đất. Ví dụ các loại phân dễ bốc hơi, tan nhanh trong nước thì bón vùi vào trong đất, các loại phân khó bốc hơi, lâu tan thì cỏ thể rải trên mặt đất hoặc dùng để bón lót. Các loại phân bón có hiệu lực nhanh, cây trồng dễ hấp thu có thể dùng để bón thúc.
Sử dụng phân bón đúng thời tiết:
     Thời tiết có ảnh hưởng rất nhiều đến hiệu quả sử dụng phân bón. Trời mưa nhiều phân bón có thể bị rửa trôi gây thất thoát phân bón, cây không sử dụng được. Thời tiết nắng nóng phân bón có thể bị bốc hơi do xảy ra các phản ứng hóa học gây thất thoát phân bón.


Phân bón hữu cơ chế biến theo quy trình công nghiệp

Phân bón hữu cơ chế biến theo quy trình công nghiệp
     Là những loại phân bón hữu cơ được chế biến từ các chất hữu cơ có nguồn gốc khác nhau theo quy trình công nghiệp với khối lượng lớn lên đến hàng ngàn tấn, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật để sản xuất ra loại phân bón có chất lượng tốt hơn, đầy đủ dưỡng chất so với nguyên liệu đầu vào và các loại phân bón hữu cơ truyền thống.
phan-bon-huu-co
                                        Phân bón hữu cơ được sản xuất theo quy trình công nghiệp

1.Phân bón vi sinh
     Phân bón vi sinh là phân trong thành phần có chứa từ một hoặc nhiều loại vi sinh vật hữu ích gồm nhiều nhóm : vi sinh vật phân giải hữu cơ, vi sinh vật cố định đạm, vi sinh vật ký sinh, vi sinh vật đối kháng, vi sinh vật phân hủy xenlulo,…..
Ưu điểm:
     Bổ sung thúc đẩy sự phát triển của hệ vi sinh vật đất, phân giải các chất cây trồng khó hấp thu thành dạng dễ hấp thu cho cây trồng, tổng hợp một số chất dinh dưỡng cho cây trồng chủ yếu là đạm (N), khống chế các mầm bệnh tồn tại trong đất, nâng cao hiệu quả sử dung hấp thu phân bón.
Nhược điểm:
  • Phân bón vi sinh không cung cấp hoặc chỉ cung cấp một lượng vừa phải các chất dinh dưỡng (từ những vi sinh vật cố đinh đạm, vi sinh vật phân giải lân,..) cho cây trồng, không đủ khả năng cung cấp đầy đủ và cân đối các chất dinh dưỡng cho cây trồng.
  • Có hạn sử dụng và mỗi loại đều phụ thuộc nhiều vào các nhóm cây trồng. Ví dụ phân vi sinh cố đinh đạm chỉ phù hợp bón cho các cây trồng họ đậu,….
  • Vi sinh vật phải có chất hữu cơ làm nguồn thức ăn để phát triển nền cần bón bổ sung thêm phân bón hưu cơ để làm thức ăn cho VSV, khiến tốn thêm một khoản chi phí để bón phân hữu cơ.
2.Phân bón hữu cơ sinh học
     Là sản phẩm phân bón chế biến từ các loại nguyên liệu hữu cơ được pha trộn và xử lý bằng cách lên men với sự góp mặt từ một hoặc nhiều loại vi sinh vật có lợi để tăng và cân bằng hàm lượng các chất dinh dưỡng cần thiết cho cây trồng. Có trên 22% thành phần là các chất hữu cơ.
Ưu điểm:
  • Có thể dùng bón được tất cả các giai đoạn của cây trồng : bón lót, bón thúc, bón nuôi quả,…
  • Cung cấp đầy đủ, cân đối các dinh dưỡng khoáng cần thiết cho cây trồng sinh trưởng, phát triển khỏe mạnh, tăng năng suất và chất lượng nông sản.
  • Bổ sung một lượng lớn chất mùn, acid Humic, Humin,…. giúp cải tạo các đặc tính hóa học -  sinh học – vật lý của đất, hạn chế rửa trôi các chất dinh dưỡng và xói mòn đất, phân giải các độc tố trong đất.
  • Bổ sung thúc đẩy hệ vi sinh vật đất phát triển giúp khống chế các mầm bệnh có trong đất, cung cấp các chất kháng sinh tự nhiên giúp tăng sức đề kháng tự nhiên, sức chống chịu của cây trồng với sâu bệnh và với những bất lợi từ thời tiết, hạn chế sâu bệnh hại.
  • Tăng hiệu lực hấp thu các chất dinh dưỡng từ đất bằng việc cung cấp các vi sinh vật phân giải những chất cây trồng khó hấp thu (khó tiêu) thành dễ hấp thu (dễ tiêu), thân thiện với môi trường, an toàn với người và sinh vật có ích.
Nhược điểm:
     Phân bón hữu cơ sinh học là giá thành thường hơi cao so với các loại phân bón khác, nhưng giá thành không phải là vấn đề, vì bù lại giá thành cao hơn nhưng có chất lượng tốt hơn, sẽ làm tăng năng suất và chất lượng nông sản, từ đó nâng cao hiệu quả kinh tế và thu nhập. Ngoài ra, sẽ hạn chế tối đa hoặc không phải sử dụng các loại phân bón hóa học, các loại thuốc BVTV, từ đó giảm được chi phí phân bón hóa học và thuốc BVTV, đảm bảo sức khỏe con người.
3.Phân bón hữu cơ vi sinh
     Là sản phẩm phân bón chế biến theo quy trình công nghiệp  từ nhiều nguồn nguyên liệu hữu cơ khác nhau, được xử lý lên men với từ một hoặc nhiều chủng vi sinh vật có lợi, chứa các bào tử sống. Có thành phần hàm lượng các chất hữu cơ trên 15%.
Ưu điểm:
    Cung cấp đủ các yếu tố dinh dưỡng khoáng đa, trung, vi lượng cho cây trồng, cải tạo độ phì nhiêu, tơi xốp của đất. Cung cấp một lượng vi sinh vật phân giải các chất khó hấp thu thành chất dễ hấp thu, vi sinh vật đối kháng, ký sinh,…cho đất giúp ức chế, kìm hãm sự phát triển các mầm bệnh trong đất, nâng cao sức đề kháng của cây trồng, không gây ô nhiễm môi trường, không độc hại với con người và sinh vật có ích.
Nhược điểm:
     Thường hàm lượng thành phần các chất hữu cơ ít hơn phân bón hữu cơ sinh học.

4.Phân bón hữu cơ khoáng
     Là  sản phẩm phân bón phân hữu cơ và được phối trộn thêm các nguyên tố khoáng vô cơ gồm N,P,K. có chứa ít trên 15% thành phần là các chất hữu cơ, từ 8-18%  tổng số các chất vô cơ (hóa học,  N+P+K).
Ưu điểm:
Có hàm lượng các chất dinh dưỡng khoáng cao.
Nhược điểm:
Bón lâu ngày sẽ không tốt cho đất và hệ vi sinh vật đất.